TRÌNH TỰ CÁC NGHI LỄ TRONG NGÀY CƯỚI CÔ DÂU CHÚ RỂ CẦN BIẾT

TRÌNH TỰ CÁC NGHI LỄ TRONG NGÀY CƯỚI CÔ DÂU CHÚ RỂ CẦN BIẾT
TRÌNH TỰ CÁC NGHI LỄ TRONG NGÀY CƯỚI CÔ DÂU CHÚ RỂ CẦN BIẾT
Video cách làm lễ đám cưới

Thủ tục các nghi lễ trong ngày cưới của Việt Nam được thực hiện với đầy đủ trình tự các nghi thức là lễ dạm ngõ, lễ ăn hỏi và lễ cưới. Vậy cần chuẩn bị gì cho các nghi lễ trong ngày cưới? Hãy cùng xem bài viết này của Kim Ngọc Thủy nhé!

I. LỄ DẠM NGÕ

Đây là một lễ nhằm chính thức hóa quan hệ hôn nhân của hai gia đình. Được tổ chức khi được sự đồng ý của nhà gái, nhà trai sẽ đem lễ sang. Lễ vật được dâng lên bàn thờ tổ tiên. Sau đó, nhà trai sẽ đem về phần lễ mà nhà gái đã lưu lại, được gọi là lại quả.

Đối với lễ này, thường người Việt Nam vẫn tiến hành theo khuôn mẫu cổ truyền:

Thành phần tham gia:

– Nhà trai: Bố, mẹ, chú rể, người mối (nếu có).

– Nhà gái: Cả gia đình nhà gái.

– Trang phục:

Trai: complet

Gái: áo dài Nếu do điều kiện không có thì mặc những bộ quần áo đẹp nhất mà mình có.

– Phương tiện đi lại:

Ở thành phố: tốt nhất là thuê một chuyến xe con 5 chỗ (vừa đủ 4 người nhà trai đi) hoặc đi xe máy.

Ở nông thôn: nếu xa có thể đi bằng xe máy, nếu gần: đi bộ.

– Lễ vật của nhà trai: Trầu cau và chè

Nhưng số lượng phải tính chẵn. (Ví dụ: 2 gói chè, hai chục cau).

– Đón tiếp ở nhà gái: Dọn dẹp nhà cửa sạch, đẹp. Ăn mặc trang trọng. Khi đoàn khách nhà trai đến, đón chào niềm nở.

Tiếp khách bằng trà (nếu có trà thơm là tốt nhất). Khi nhà gái đồng ý nhận lễ vật, mang đặt lên bàn thờ thì cuộc lễ coi như kết thúc. Sau đó hai bên có thể ngồi lại nói chuyện đôi chút.

II. LỄ ĂN HỎI

Có thể nói rằng, lễ ăn hỏi là sự thông báo chính thức về sự hứa giá thú của hai gia đình, hai họ. Nó đánh dấu một chuyển đoạn quan trọng trong quan hệ hôn nhân: Cô gái được hỏi đã chính thức trở thành vợ chưa cưới của chàng trai đi hỏi.

Thành phần tham gia:

– Nhà trai: Chú rể, bố mẹ, ông bà, gia đình, bạn bè và một số thanh niên chưa vợ bưng mâm quả (hoặc bê tráp).

Thường thì người bê tráp là nữ nhưng do mâm quả bây giờ khá nặng nên có thể thay thế bằng nam. Số người bê tráp là số lẻ, 3, 5, 7, 9 hoặc 11.

– Nhà gái: Cô dâu, bố mẹ, ông bà, gia đình và một số nữ chưa chồng để đón lễ ăn hỏi, số nữ đón lễ vật tương ứng với số nam bưng mâm.

– Lễ vật:

Cau tươi: 1 buồng

Bánh cốm: 200 chiếc

Hạt sen: 2 kg

Chè: 2 kg

Rượu: 2 chai

Thuốc lá: 2 tút

Bánh su xê (phu thê): 200 hoặc 20 chiếc

Phong bì tiền: 2 chiếc

cach lam le dam cuoi 1

Chi tiết những lễ vật cần chuẩn bị phục vụ cho các nghi lễ trong ngày cưới

“Tiền mặt”:

Đây là vấn đề đang được tranh cãi nhiều: có ý kiến cho rằng, lễ vật bằng tiền thì quá thô, thậm chí còn có người cho rằng, làm như vậy là xúc phạm đến nhà gái,… có người thì lại cho rằng, vấn đề là ở cách đưa tiền: làm thế nào để tiền trở thành một lễ vật chứ không phải là một phương tiện trao đổi, mua bán như chức năng vốn có của nó.

Nếu số tiền đó được đổi thành những đồng tiền mới tinh (như tiền mừng tuổi mà ông bà, cha mẹ chúng ta thường làm) và được bao bởi một phong bì đẹp màu đỏ, có in chữ “song hỷ” thì người nhận lễ sẽ không bị mặc cảm là mình đã nhận tiền theo nghĩa đen nữa.

Rước lễ vật:

Tất cả các lễ vật phải được sắp xếp gọn gàng và thẩm mỹ. Và nhất thiết phải được bày vào quả sơn son thếp vàng (hay mâm đồng đánh bóng, phủ vải đỏ). Dù dùng phương tiện đi lại là: ô tô, xích lô, xe máy, hay đi bộ thì đoàn ăn hỏi cũng nên dừng lại cách nhà gái khoảng 100m, sắp xếp đội hình, rồi mới đội lễ vào nhà gái. Đây thực sự là một hình thái văn hóa dân tộc.

Những lễ vật dẫn cưới theo phong tục cổ truyền đều thể hiện được ý nghĩa trên và ngày nay người Việt Nam vẫn tuân thủ.

Trang phục:

Trang phục cho cô dâu (tốt nhất là một bộ áo dài, vừa có thể mặc trong lễ cưới, vừa có thể mặc ở những dịp lễ hội sau này). Nếu kinh tế nhà trai khá giả có thể sắm cho cô dâu tương lai một trong những đồ trang sức sau: xuyến, vòng, hoa tai… Chú rể thì comple, cà vạt.

Tiếp khách:

Vì đây là một lễ trọng nên nhà gái phải chuẩn bị chu đáo hơn lễ chạm mặt. Tuy nhiên, do nội dung chủ yếu của lễ này là sự bàn bạc cụ thể, chính thức của hai gia đình về việc chuẩn bị lễ cưới, nên nhà gái không bày tiệc mặn mà chỉ bày tiệc trà. Nghi thức trao nhận lễ vật cũng nên trở thành nghi thức bắt buộc.

Trách nhiệm của cô dâu:

Phải ngồi trong phòng cho đến khi nào chú rể vào đón hoặc cha mẹ gọi mới được ra. Ra mắt tổ tiên bằng cách thắp hương lên bàn thờ (đối với những nhà không theo đạo Thiên chúa). Sau đó cô dâu sẽ cầm ấm trà đi từng bàn để rón nước mời khách.

Nhà gái:

sau khi nhận lễ rồi đưa lên bàn thờ thắp hương, nhà gái sẽ lấy ra mỗi thứ trong đồ lễ ăn hỏi một ít để “lại quả”. Lưu ý là đối với cau thì phải xé chứ không được dùng dao để cắt. Khi nhà trai nhận lại tráp để bê về thì phải để ngửa, không được úp tráp lại.

Biếu trầu:

Xưa, sau lễ ăn hỏi, nhà gái dùng các lễ vật nhà trai đã đưa để chia ra từng gói nhỏ để làm quà biếu cho họ hàng, bè bạn, xóm giềng,… ý nghĩa của tục này là sự loan báo: Cô gái đã có nơi có chỗ.