Lễ cưới là một trong những nghi thức quan trọng nhất của người Mông, đánh dấu sự trưởng thành của mỗi cá nhân. Dù cuộc sống hiện đại có thay đổi nhiều, nhưng các nghi lễ trọng yếu vẫn được duy trì. Tuy nhiên, ngày nay, các nghi thức đã đơn giản hơn và một số truyền thống đã bị bỏ đi. Điều này đã góp phần tích cực vào việc xây dựng một đời sống văn hóa mới trong các bản làng ở vùng cao.
Quan niệm về đám cưới của người Mông
Vào mùa thu cuối cùng và đầu đông, khi tiết trời mát mẻ và tia nắng chiếu xuống những ngôi nhà truyền thống, các cặp đôi ở các bản làng vùng cao bắt đầu chuẩn bị cho ngày hôn lễ trọng đại của mình. Các bản làng tập trung đông đúc dân tộc Mông như xã Pù Nhi, Nhi Sơn ở huyện Mường Lát thường có ít nhất một đám cưới ở cuối tuần. Con người cùng nhau hân hoan như đi hội. Cả trẻ em lẫn người lớn, đặc biệt là phụ nữ, mặc trang phục truyền thống Áo Mông, tô điểm những con đường núi rừng bằng những màu sắc tươi vui và sống động. Thỉnh thoảng, bạn cũng có thể thấy nhiều chiếc xe máy chở rương nhôm trên đường về bản – đồ dùng mà các cặp đôi mua để đựng những vật dụng quan trọng sau này khi sống riêng.
Huyện Mường Lát là vùng núi có nhiều dân tộc cùng chung sống, trong đó dân tộc Mông chiếm 43,7%. Cùng với các dân tộc khác, người Mông ở đây vẫn giữ bản sắc văn hóa riêng của mình, trong đó có cả nghi thức cưới hỏi.
Ông Lâu Minh Pó, người Mông ở bản Pù Toong, xã Pù Nhi, là một trong số rất ít người còn giữ được những tư liệu quý về nghi thức cưới truyền thống. Ông cũng là người được nhiều gia đình người Mông tin tưởng chọn làm trưởng đoàn khi đi hỏi vợ cho con cháu trong gia đình. Ông không chỉ hiểu rõ về các phong tục, tập quán của dân tộc mà còn giúp đỡ bà con thay đổi những truyền thống không còn phù hợp.
Theo ông Pó, trước đây, con trai và con gái Mông thường lập gia đình rất sớm, nhưng ngày nay họ đã tuân thủ quy định, con gái cưới khi đủ 18 tuổi, con trai khi đủ 20 tuổi. Tục bắt vợ cũng không còn tồn tại vì những biến dạng không mong muốn. Hôn nhân của người Mông dựa vào tự do lựa chọn bạn đời, họ không lấy nhau nếu cùng dòng họ. Tuy nhiên, ở từng vùng khác nhau, đám cưới có một số điểm khác biệt nhưng vẫn tuân theo các nghi thức như dạm hỏi, ăn hỏi và lễ đón dâu.
Người Mông thường tổ chức lễ cưới vào mùa đông hoặc mùa xuân, tránh những ngày gió mạnh và sấm chớp. Ngày đẹp được chọn để tổ chức lễ cưới thường là “đi mồng 1 về mồng 2” âm lịch, hay “đi ngày con chuột về ngày con trâu”. Điều này có nghĩa là đi vào ngày lẻ và về vào ngày chẵn, hay đi từ ngày nhỏ đến ngày lớn. Điều này thể hiện mong muốn có một cuộc sống đôi hạnh phúc, đầy đủ và phát triển.
“Các cặp đôi Mông chỉ chọn ngày đôi như là mùng 2 hoặc mùng 4, 16… để cưới. Ngày đôi là vì con trai và con gái lấy nhau mình chỉ muốn cho có đôi có cặp nên chọn ngày đôi để cưới. Ngày chẵn là ngày may mắn của dân tộc Mông chúng tôi, từ ngày xưa chúng tôi đã làm như thế rồi”, ông Pó chia sẻ.
Cô dâu đôi má hồng về nhà chồng
Trong ngày trọng đại, người thân và những người tham dự lễ cưới thường mặc trang phục truyền thống đẹp nhất, được phụ nữ Mông thêu và may. Khi gia đình chú rể đã có mặt, trưởng họ sẽ giao nhiệm vụ đồ lễ cho ông mối và cùng nhau kiểm tra đồ lễ chu đáo, phân công công việc… Đoàn nhà chú rể đưa lễ vật sang nhà cô dâu gồm hai quan lang, hai phù rể, một cặp vợ chồng có gia đình ổn định, một cô gái trong dòng họ, và một số bạn bè, người thân của nhà chú rể đi cùng một bếp trưởng và 4-5 người để nấu ăn ở nhà cô dâu (chú ý phải đi lẻ về chẵn).
Sau khi trưởng họ thắp hương trên bàn thờ tổ tiên, ông mối sẽ hướng dẫn chú rể và phù rể cúi lạy tổ tiên trời đất và đi vòng quanh bàn để xin phép. Tiếp theo, họ sẽ lên đường đến nhà cô dâu. Sau khi ông mối hát bài “Xin chiếc ô đen” và nhận túi vải từ tay trưởng họ, đoàn đón dâu sẽ đến cửa nhà cô dâu. Người ta tin rằng chiếc ô che mưa nắng trên đường là để báo hiệu với các vị thần rằng nhà chú rể đã đón được cô dâu về làm dâu và mời các vị thần trời chứng kiến và bảo hộ cho đôi vợ chồng trẻ. Nếu trên đường gặp đám ma hoặc nghe thấy tiếng sấm, họ sẽ quay về và đi lần khác.
Khi đoàn đưa hoặc đón dâu trở về nhà, cả đoàn sẽ đứng trước cửa gia đình để làm lễ nhập ma cho cô dâu, báo cáo với tổ tiên và thần linh. Hai vợ chồng họ hàng sẽ ra ngoài cửa đón cô dâu. Khi bước vào cửa, cô dâu phải vượt qua ba cái ghế ở giữa nhà để đến chỗ nghỉ của mình.
Khi cô dâu về nhà chồng, trong ba đêm đầu tiên, phù dâu có trách nhiệm ngủ cùng cô dâu. Trong thời gian này, cô dâu phải tuân stricty, tất cả mọi việc đều do các phù dâu, chị dâu hoặc em nhà chồng làm. Đến sáng thứ ba, nhà chồng gọi anh em họ hàng và bắt con gà trống lấy vía cô dâu để làm lễ nhập môn. Khi đó, cô dâu mới được phép tham gia các hoạt động trong gia đình nhà chồng.
Sau bữa cơm, vợ chồng trẻ cùng bố mẹ chồng và phù dâu quay lại nhà cô dâu để làm lễ lại mặt. Lễ cưới chính thức được coi là diễn ra sau khi cô dâu đã tham gia lễ nhập môn và là thành viên chính thức của gia đình chồng. Nếu cô dâu muốn về thăm bố mẹ đẻ, cô phải đi cùng chồng mới được coi là hợp phong tục.
Ông Lâu Văn Ly, chuyên viên Phòng Văn hóa – Thông tin huyện Mường Lát, cho biết: “Người Mông tin rằng khi đã lấy chồng, họ phải theo chồng nên vợ chồng người Mông thường gắn bó với nhau như “hình với bóng” trong mọi việc. Đó là lý do tại sao cặp vợ chồng Mông thường cùng nhau đi chợ, chồng uống rượu say, vợ ngồi đợi chồng tỉnh rồi cùng nhau về”.
Tựa như nhiều yếu tố văn hóa khác, nghi thức cưới hỏi của người Mông đang dần mai một do nhiều thế hệ không truyền dạy kĩ. Đám cưới vẫn mất nhiều thời gian và tiền bạc cho các bữa tiệc rượu. Vì vậy, loại bỏ những quy định không còn phù hợp và cải tiến nghi thức cưới hỏi là một nhiệm vụ cần làm ngay để duy trì nét văn hóa truyền thống của người Mông và xây dựng một đời sống văn hóa mới trong các khu dân cư.